Kiến trúc xanh mang đến lợi ích trực tiếp, giúp giảm chi phí nhiên liệu, y tế, đem lại môi trường trong sạch. Nhưng ở Việt Nam, việc triển khai không dễ vì nguyên nhân liên quan đến vật liệu xây dựng, thể chế pháp lý và những hiểu biết chung.
Vật liệu xây dựng là một trong những vướng mắc hiện nay trong việc nhân rộng mô hình kiến trúc xanh. Vật liệu xây dựng cho mô hình kiến trúc xanh thường có giá thành ban đầu cao vì phải đáp ứng được một số yêu cầu đặc biệt như kính hai lớp để giảm bức xạ nhiệt; tổ chức và tận dụng sự lưu chuyển năng lượng trong ngôi nhà; sử dụng cảm ứng để điều chỉnh ánh sáng đèn thích hợp...
Năng lượng được coi là quan tâm hàng đầu trong thiết kế nhà ở "kiến trúc xanh" ở hai khía cạnh. Thứ nhất, năng lượng tiêu hao để tạo ra sản phẩm sẽ phải ở mức thấp nhất. Một bức tường gạch phải được đem so với bức tường kính xem cần bao nhiêu năng lượng, bao nhiêu vật liệu khai thác từ thiên nhiên để tạo ra bức tường gạch và kính đó. Sản phẩm nào tiêu dùng ít năng lượng hơn sẽ được chọn. Với xu hướng đó, trên thế giới ngày càng dùng nhiều bê tông nhẹ chịu lực cao, gia tăng các vật liệu mới. Công nghệ mới cũng cho phép sử dụng kết cấu có kích cỡ nhỏ, ít chiếm chỗ hơn bê tông cốt thép kiểu cũ. Điều này cho phép dành nhiều không gian hơn cho nhu cầu sinh hoạt, khoảng trống, mảng xanh... Và tất nhiên, đầu tư ban đầu sẽ lớn hơn hẳn với nhà thông thường.
Thứ hai, năng lượng tiêu hao để vận hành sử dụng toà nhà cũng sẽ được xem xét từ trong quá trình thiết kế. Các thiết bị tận dụng năng lượng trực tiếp từ thiên nhiên như nắng, gió… trước đây gặp trở ngại vì giá thành thường cao. Nhưng hiện nay, việc ứng dụng đã khả thi hơn nhờ công nghệ có bước đột phá, giá thành giảm. Chẳng hạn như pin mặt trời trước đây chỉ có hiệu suất 25% (biến 25% năng lượng mặt trời chiếu xuống một đơn vị diện tích tấm pin thành năng lượng hữu ích) thì nay có thể đạt hiệu suất 60%.
Về thể chế và khung pháp lý, ở Việt Nam, Chính phủ và Bộ Xây dựng đã ban hành nhiều nghị định và quy chuẩn xây dựng với các công trình sử dụng hiệu quả năng lượng. Tuy nhiên, chưa có một chế tài cụ thể cho việc khuyến khích các công trình được xây dựng theo mô hình kiến trúc xanh, cũng như các hướng dẫn chi tiết và đồng bộ. Bản thân công trình vốn đã không được sự “hưởng ứng” từ phía các nhà đầu tư vì số tiền bỏ ra ban đầu khá cao, lại không được khuyến khích và quảng bá một cách thiết thực từ các nhà quản lý xây dựng, từ chính quyền đô thị. Hiện, các công trình nhà ở thông minh hay tiết kiệm năng lượng chỉ tồn tại lẻ tẻ mà ít có sự tuyên dương, giới thiệu hay quảng bá nào.
Viện Kiến trúc Mỹ hàng năm đều có bình chọn sản phẩm trao giải top 10 công trình xanh. “Xanh” cũng là một tiêu chí lớn trong 10 công trình kiến trúc nổi bật của năm 2007 do tạp chí Time bình chọn. Tiến sĩ Matthias Krups, Chủ tịch tập đoàn thông tin xây dựng BCI và tạp chí kiến trúc FuturArc cho rằng đây là trách nhiệm của kiến trúc sư ngay từ khi bắt đầu bản vẽ. Phải cẩn trọng giúp giảm chi phí cho công trình trong suốt vòng đời của nó, qua đó giảm ảnh hưởng đến môi trường.
Tại Trung Quốc, Skidmore, Owings & Merrill đã thiết kế dự án tòa nhà chọc trời không tiêu hao năng lượng đầu tiên ở Trung Quốc, dự kiến hoàn thành vào năm 2009. Mang tên “Toà tháp Châu Giang” với 71 tầng, đây sẽ là toà nhà sạch đầu tiên ở Trung Quốc, bởi chỉ sử dụng nguồn năng lượng dựa vào sức gió và ánh nắng mặt trời. Thiết kế mới được coi là động thái có tính khích lệ trong bối cảnh Trung Quốc có khoảng 50% ô nhiễm từ các toà nhà. Hiện các nhà chức trách quốc gia này đang xúc tiến việc phát triển tốt cho môi trường bằng việc loại các dự án không thoả mãn các tiêu chuẩn sạch và hỗ trợ tài chính cho các công nghệ thân thiện môi trường.
Thủ đô Seoul của Hàn Quốc cũng đã lập quỹ thưởng cho cá nhân, tập thể, công sở nào tận dụng diện tích mái nhà trồng thảm cỏ, cây xanh trên cao. Nhờ mức thưởng tăng theo diện tích thảm xanh tạo ra so với diện tích nhà xây mà thúc đẩy được tốc độ xã hội hóa, tăng “diện tích xanh” để thay đổi vi khí hậu trong các tiểu khu đô thị, khắc phục ô nhiễm khói bụi, tăng ô xy tự nhiên. Các bể bơi lộ thiên cũng được xây ở mái bằng tòa nhà để tăng diện tích mặt nước, tận dụng đất trống giữa các nhà cao tầng để xây bể bơi, làm bồn phun nước, cải thiện vi khí hậu, tiết kiệm năng lượng cho các toà nhà.
Hiểu biết chung về kiến trúc xanh còn hạn chế. Số lượng các tài liệu về kiến trúc xanh lưu hành tại Việt Nam ít, lại đa phần là các tài liệu có xuất xứ từ châu Âu hay Bắc Mỹ, nơi người ta chủ yếu chống lạnh, trong khi tại Việt Nam, vấn đề chống nóng và thoát ẩm phải đặt lên hàng đầu. Kiến trúc xanh không có một quy tắc chung mà vấn đề bối cảnh địa phương phải đặt lên hàng đầu, từ đó mới xem xét giải pháp nào là phù hợp, tức là cách ứng dụng nguyên lý thiết kế ở đâu, như thế nào… mới là kết quả cuối cùng cho một mô hình kiến trúc xanh.
Một số nghiên cứu của các kiến trúc sư, nhà hoạt động môi trường trong khu vực chưa được quảng bá và phổ cập rộng rãi cho những người làm nghề cũng như người sử dụng. Trong buổi nói chuyện của một chuyên gia hàng đầu về kiến trúc xanh tại Đài Loan, giáo sư Lâm Thế Đức, giảng dạy tại khoa kiến trúc của trường ĐH Thành Công (Đài Loan), đồng thời là cố vấn của Đài Loan về kiến trúc xanh và tiết kiệm năng lượng, đã nhấn mạnh vấn đề này mà Đài Loan và Việt Nam, đang mắc phải. Ông cũng đề cập đến hệ thống kiến trúc xanh ở Đài Loan với 9 tiêu chí tóm gọn là EEWH (Ecology – Energy saving – Waste reduction – Health) trong đó tiết kiệm năng lượng và nước là hai tiêu chí quan trọng nhất.
Tóm lại, khi muốn ứng dụng rộng rãi mô hình kiến trúc xanh trong tiết kiệm năng lượng, cần có những bước khảo sát, chuẩn bị, nghiên cứu lý thuyết... để có thể ứng dụng một cách hiệu quả nhất. Ngoài ra, cần thiết phải đưa ra được một mô hình hợp lý để năng lượng được sử dụng hiệu quả, đảm bảo môi trường phát triển bền vững tại Việt Nam.
(Theo Tạp chí Kiến trúc VN)