Xin cảm ơn!
|
Những trường hợp thu hồi đất nhưng không được bồi thường về đất được quy định tại Điều 64, Điều 65 và Điều 82 của Luật Đất đai năm 2013. (Ảnh minh họa) |
Trả lời:
Những trường hợp thu hồi đất nhưng không được bồi thường về đất được quy định tại các Điều 64, Điều 65 và Điều 82 của Luật Đất đai năm 2013. Cụ thể như sau:
- Đất được Nhà nước giao cho tổ chức thuộc trường hợp có thu Tiền sử dụng đất song lại được miễn Tiền sử dụng đất;
- Đất được Nhà nước giao không thu Tiền sử dụng đất (ngoại trừ trường hợp Nhà nước giao đất nông nghiệp cho cá nhân, hộ gia đình quy định tại Khoản 1, Điều 54, Luật Đất đai năm 2013);
- Đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của thị trấn, phường, xã;
- Đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê song được miễn tiền thuê đất (ngoại trừ trường hợp cá nhân, hộ gia đình sử dụng đất thuê do thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng); đất được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm;
- Đất nhận khoán để nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp, làm muối;
- Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất;
- Sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước cho thuê, giao, công nhận quyền sử dụng đất, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng đất sai mục đích mà tiếp tục vi phạm;
- Đất không được tặng cho, chuyển nhượng theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 mà nhận tặng cho, nhận chuyển nhượng;
- Đất được cho thuê, được giao không đúng thẩm quyền hoặc không đúng đối tượng;
- Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 mà người sử dụng đất để bị lấn, chiếm do thiếu trách nhiệm;
- Đất được Nhà nước giao để quản lý mà để bị lấn, chiếm;
- Đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn 18 tháng liên tục; đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục và đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn 24 tháng liên tục;
- Người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, không chấp hành dù đã bị xử phạt vi phạm hành chính;
- Đất được Nhà nước cho thuê, giao để thực hiện dự án đầu tư nhưng không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc so với tiến độ ghi trong dự án, tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa phải đưa đất vào sử dụng; nếu không đưa đất vào sử dụng, chủ đầu tư được gia hạn sử dụng 24 tháng, đồng thời phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền thuê đất, tiền sử dụng đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này; nếu chủ đầu tư không đưa đất vào sử dụng khi hết thời hạn, Nhà nước sẽ thu hồi đất mà không bồi thường về đất cũng như tài sản gắn liền với đất, ngoại trừ trường hợp bất khả kháng.
Mặt khác, Điều 76, Luật Đất đai năm 2013 quy định rõ về những trường hợp không được bồi thường về đất song lại được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất.
Luật sư Phạm Thị Bích Hảo
(Giám đốc Công ty luật TNHH Đức An)