Nay chúng tôi làm thủ tục ly hôn. Vậy xin hỏi căn nhà đó có được coi là tài sản chung không?
Thái Thị Hoa (huyện Dầu Tiếng, Bình Dương)
Ảnh minh họa
Trả lời:
Tại Khoản 1, Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình có quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận”.
Tại Điều 5 Nghị định 70/2001/NĐ-CP của Chính phủ quy định: Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng đã đăng ký quyền sở hữu trước ngày Nghị định này có hiệu lực (ngày 18/10/2001) mà chỉ ghi tên của một bên vợ hoặc chồng, vợ chồng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy tờ đăng ký sở hữu tài sản đó để ghi tên của cả vợ và chồng.
Trường hợp nếu vợ chồng không yêu cầu cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản, tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng; khi xảy ra tranh chấp, bên nào cho đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình phải có nghĩa vụ chứng minh.
Căn cứ những điều khoản trên và theo đơn thư của bà, căn nhà vợ chồng bà tạo lập trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Khi ly hôn, các bên có thể tự thỏa thuận việc chia tài sản chung, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án phân chia.
Luật gia NGUYỄN VĂN KHÔI
Theo Sài Gòn đầu tư tài chính Online